Husky Sibir

Chó Husky Sibir (Tiếng Nga: сибирский хаски, “Sibirsky hasky”, Phiên âm: “hất-s-ki“)  là một giống chó cỡ trung thuộc nòi chó kéo xe có nguồn gốc từ vùng Đông Bắc Sibir, Nga. Xét theo đặc điểm di truyền, chó Husky được xếp vào dòng Spitz. Chó Husky có hai lớp lông dày, tai dựng hình tam giác và thường có những điểm nhận dạng khác nhau trên lông.

Chó Husky là giống chó rất ưa thích vận động do tổ tiên của chúng sống ở một trong những nơi lạnh giá nhất như Siberia, ở đây chó Husky nguyên thủy được phối giống bởi người Chukchi ở Đông Bắc Á nhằm mục đích kéo xe hàng trên một quãng đường dài trong điều kiện lạnh giá khắc nghiệt. Giống chó này được đưa tới Alaska trong thời kì khai thác vàng ở Nome rồi sau đó trở nên phổ biến ở Hoa Kỳ và Canada. Ban đầu Husky được nuôi để làm chó kéo xe nhưng về sau chúng trở thành thú nuôi trong gia đình.

Lịch sử

Các giống chó Husky Sibir, Samoyed, và Alaskan Malamute đã được công nhận đều có chung nguồn gốc từ một giống chó cổ đại theo kết quả ADN công bố năm 2004.[2][3] Từ năm 1908, chúng được du nhập vào Alaska trong thời kỳ khai thác vàng và được sử dụng là chó kéo xe và chó đua xe. Ở đây, xe kéo bởi vì chó Husky nhanh chóng trở thành phương tiện phổ biến lúc bây giờ. Năm 1930, việc xuất khẩu chó ở Siberia bị dừng lại,[4] cũng là năm mà “câu lạc bộ chó giống Mỹ (AKC) công nhận giống chó Husky Sibir. Chín năm sau, giống chó này lần đầu tiên được đăng kiểm ở Canada. Năm 1938 United Kennel Clubcông nhận giống chó “Husky Bắc Cực” và đổi tên thành Husky Sibir vào năm 1991 cho tới nay.[5] Giống chó Husky nguyên thủy được nuôi và phối giống bởi người Chukchi được cho là đã tuyệt chủng nhưng một phóng viên của tạp chí “Geographical magazine” vào năm 2006 đã đưa ra báo cáo chúng còn sống sau chuyến công tác của anh tại Siberia).

Đặc điểm

  • Lông của Husky Sibir

Lông của giống Husky dày hơn đa phần lông các giống chó khác gồm 2 lớp, một lớp lông dày và ngắn lót phía trong và một lớp lông mỏng hơn, dài hơn bao phủ bên ngoài giúp bảo vệ chúng khỏi cái lạnh khắc nghiệt vùng băng giá. Chúng có thể chịu được cái lạnh từ −50 đến −60 °C (−58 đến −76 °F). Chó husky thay lông tơ thường xuyên, nếu sống cùng con người thì cần chải lông hàng tuần.

Chó Husky Sibir có rất nhiều màu lông khác nhau nhưng hầu hết sẽ có chân, mõm, đốm cuối đuôi là lông trắng. Thường gặp nhất là Husky có màu lông đen-trắng, sau đó là nâu (đỏ)- trắng, xám (phấn) – trắng, trắng, và màu lông hiếm “agouti”.

  • Mắt của Husky Sibir
Husky hai màu mắt
Husky Sibir với hai mắt xanh

Mắt chó Husky hình quả hạnh nhân đặt cách nhau vừa phải và hơi xếch lên. Màu mắt cũng đa dạng như xanh da trời, xanh nước biển, màu hổ phách, xanh lá cây, hoặc nâu. Một số con có thể có 2 mắt với mỗi mắt là một màu khác nhau. Cũng có thể có một hoặc cả hai mắt có màu pha trộn (parti-colored) nửa xanh nửa nâu. Tất cả những màu mắt nêu trên đều được chấp nhận là mắt của Husky “thuần chủng”.

  • Mũi của Husky Sibir

Xếp theo màu lông, chó lông xám thì mũi có màu đen, lông đen thì có mũi nâu, lông nâu thì có mũi đỏ xẫm, và lông trắng thì mũi màu xám nhạt.

  • Đuôi của Husky Sibir
Husky giữ nhiệt cho mũi bằng đuôi

Đuôi của chó Husky dài và rất rậm lông, chúng thường hay cụp đuôi nếu không có hoạt động, khi chạy nhảy hoạt động chúng thường uốn cong đuôi lên lưng để cơ thể có thêm độ ấm. Đây cũng là đặc điểm chung của một số giống chó có nguồn gốc từ xứ lạnh như Akita, Alaskan Malamute hay Samoyed. Khi ngủ chó Husky sẽ vòng đuôi qua mõm để giữ ấm cho mũi như trong ảnh. Chúng sẽ hạ thấp đuôi khi thư giãn và dựng cong đuôi khi phấn khích hoặc tò mò.

  • Kích thước của Husky Sibir

Kích thước được xem là thuần chủng của một con Husky đực là cao khoảng 21 và 23 inch (53 và 58 cm) và nặng 45 và 60 pound (20 và 27 kg). Con cái sẽ bé hơn, nó cao khoảng 20 đến 22 inch (51 đến 56 cm) và nặng khoảng 35 đến 50 pound (16 đến 23 kg).

  • Tính cách của Husky Sibir

Chó Husky được xem là có ngoại hình và hành vi giống với tổ tiên của chúng là loài chó sói. Chúng thích liên lạc, giao tiếp với bằng cách hú hơn là sủa. Chúng có xu hướng đi lang thang và tìm cách trốn thoát sự tù túng. Chó Husky được xem là bậc thầy đào tẩu, chúng có thể đào hầm phía dưới, gặm nát, hoặc nhảy qua hàng rào cao

Đây là giống chó thân thiện với trẻ em, người Chukchi còn sử dụng chó Husky như người bảo vệ con cái của họ. Vì là giống chó có nhiều năng lượng nên đa phần có dấu hiệu tăng động, phá phách khi sống nuôi nhốt trong nhà chật hẹp nên cần có phương pháp tập luyện nghiêm ngặt hơn so với những giống chó khác. Chúng có thể sẽ đuổi theo mèo, thú nhỏ một khoảng cách rất xa và đi lạc, sẽ rất nguy hiểm nếu chúng sống ở một số quốc gia có nạn bắt trộm chó phổ biến như Trung Quốc hay Việt Nam nên dây dắt là công cụ cần thiết khi đi ở ngoài. Ngoài ra tính bầy đàn của Husky rất mạnh nên chúng thích sống chúng với những con chó khác, hoặc người chủ nên thường xuyên ở bên cạnh. Chó Husky sẽ hú khi nó cảm thấy bị bỏ rơi hay cô đơn. Chó Husky thích chạy vì đó là bản năng của chúng. Theo lời khuyên của các chuyện gia, người nuôi chó Husky nên cho chúng chạy ít nhất 2 lần/ ngày để rút bớt năng lượng của chúng, hạn chế sự phá phách trong nhà. Chó Husky đứng thứ 45 trong bản xếp hạng những giống chó thông minh nhất.

Tầm ảnh hưởng

Năm 1925, 2 chú chó Husky tên là Balto và Togo đã trở nên rất nổi tiếng qua câu truyện “Great Race of Mercy”. Chú chó Balto đã chạy liên tục quãng đường dài 53 dặm (85 km) để đưa được huyết thanh cứu người tới Nome, còn Togo là chú chó chạy được quãng đường 91 dặm (146 km), xa nhất thời điểm đó đưa chủ mình từ Norton Sound tới Golovin. Bức tượng đồng của Balto được đặt tại công viên trung tâm thành phố New York từ 1925 như một biểu tượng của lòng trung thành và quả cảm.

Tượng Balto ở Công viên Trung tâm New York

(Nguồn: vi.wikipedia.org)

Tên khác Chukcha, Chuksha, Keshia
Biệt hiệu Sibe, Husky
Nguồn gốc Siberia, Nga
Đặc điểm
Nặng Đực 20½-27kg (45-60 pound)
  Cái 35-50 pound (15,8-22,6kg)
Cao Đực 53-60cm (21-23½ inch)
  Cái 20-22 inch (50,8-55,8cm)
Bộ lông Lông kép dày – lông trong dày & lông ngoài mềm.
Màu Tất cả màu sắc từ đen tới trắng.
Lứa đẻ 6-8 con
Tuổi thọ 12-15 năm

Alaska Malamute

Chó Alaska hay Alaska Malamute hay Mahlemuts là một giống chó kéo xe ở Alaska. Giống chó sói được đặt tên theo bộ tộc Mahlemut là Malamute.

Người Eskimo du mục ở Alaska đã khám phá ra chúng có khả năng di chuyển và kéo xe trên tuyết một khoảng cách rất lớn và liên tục. Họ đã cho lai tạo với những giống khác như chó Newfoundland hoặc St Bernard để có được giống chó ngày càng to hơn, khỏe hơn, bền bỉ hơn, và chịu được thời tiết khắc nghiệt của vùng Bắc Cực. Người Nga đã dùng những chú chó này đê chở lông thú và thịt thú rừng tới những khu vực lân cận để bán và đổi các mặt hàng khác. Giống chó này đòi hỏi được tập luyện hàng ngày nếu không chúng sẽ buồn chán và phá hoại.

Tổng quan

Chúng được những người dân sống tại sống tại vịnh Kotzebue, Vùng đất Alaska nuôi dưỡng và huấn luyện chuyên dùng để làm việc trong thời tiết khắc nghiệt và hết sức lạnh giá của vùng đất Bắc Cực. Khi những người Nga khám phá ra vùng đất bắc cực lạnh giá này thì họ cũng có nhắc đến giống Chó với những đặc điểm mà giống với những gì mà giống Chó alaska đang có. Sau này vùng đất Alaska trở thành 1 bang của Mỹ thì ngẫu nhiên, giống Chó này trở thành một giống Chó của Mỹ. Và chính vì thế, đến năn 1935 American Kennel Club đã công nhận điều ấy.

Những người dân du mục khá tự hào về giống chó của họ vì chúng luôn hoàn thành tốt quãng đường phải vượt qua. Malamute đã được phát triển ở Alaska từ lâu đời, trước khi Alaska trở thành một bang của Mỹ. Việc nghiên cứu và phát triển giống chó này không rầm rộ hay nổi bật như các giống chó khác.

Malamute chủ yếu được nuôi ở gần vùng Bắc cực băng giá và những khu vực có tuyết quanh năm. Tuy nhiên ở một số nơi khác thì chúng được nuôi như vật cảnh trong gia đình. Khi cần di chuyển trên một quãng đường tuyết khá xa thì khó có loài nào có thể thay thế được chó Malamute. Manamute vẫn được lai tạo để phục vụ cho mục đích kéo xe. Một đàn chó kéo đông tạo nên một sức mạnh to lớn để vượt nhiều con đường tuyết phủ trắng với sự nhiệt tình hết mình cho chuyến đi và chịu đựng thời tiết khắc nghiệt. Chúng thay cho bất kì loại hình phương tiện di chuyển nào trên vùng đất phương Bắc này.

Hàng năm tại Canada, Mỹ và một số nước khác có tổ chức những cuộc đua mang tính chất thể thao diễn ra nhằm phát triển giống chó chuyên kéo xe tuyết này. Đôi khi tại một số thành phố hay nông trại thì người nuôi cũng sử dụng chúng với mục đích tương tự nhưng những con Malamute này lại kéo xe có bánh tròn để thồ nông sản và một số vật dụng khác thay cho ngựa. Với những đàn chó kéo trên 15 con trên một quãng đường rất dài thì yêu cầu người nuôi và điều khiển có sự tuyển chọn kĩ càng cho những chuyến đi.

Một con Alaska Malamut

Đặc điểm

Theo sự phân chia của AKC (hiệp hội chó Hoa Kỳ), có tất cả ba loại chó Alaska là Standard (tiêu chuẩn), Large Standard (tiêu chuẩn lớn) và Giant (khổng lồ). Alaskan Malamute có chiều cao trung bình là 63,5 cm và có thể cao đến 68,5 cm và có sự cân đối về chiều cao, cân nặng, cấu trúc xương và cơ bắp. Dòng Giant có thể cao đến 70 cm và nặng tới 75 kg.Xương chân lớn rất cơ bắp để phục vụ cho việc kéo xe. Với hình dáng ngoài không được quý phái, duyên dáng hay có dáng thể thao như một số giống khác mà nó có nét tương đồng với loài sói Bắc Mỹ. Cặp mắt màu nâu, nâu đen hình quả hạnh, tai nhỏ đầy lông tơ. Alaska Malamute đẹp nhất là nhờ bộ lông dày mượt, đặc biệt cái đuôi hình bông lau xõa đều cong ngược trên lưng. Bộ lông dày thô, mềm, bóng và có sắc biến thiên dần từ màu trắng toát ở phần bụng tới màu đen lên đến trên sống lưng và có khuôn mặt rất đẹp với những mảng trắng. Đuôi luôn cuộn phía trên lưng. Giống chó Alaskan Malamute có hai lớp lông ngăn không cho cái lạnh buốt giá ngấm vào cơ thể. Lớp lông dài phía ngoài không thấm nước, lớp lông trong ngắn hơn nhưng rất dày lớp lông trong ngắn và cấu trúc như những sợi lông cừu. Do vậy mà việc chăm sóc lông phải yêu cầu rất nhiều thời gian và chu đáo. Nếu nuôi tại các gia đình thì phải chải lông thường xuyên để tránh lông rụng bám vào thảm hay chăn đệm.

Chó alaska là một trong những giống Chó lao động mà chủ yếu là dùng để kéo xe, chính vì thế chúng sở hữu một bộ khung cao to, chắc chắn rất khỏe mạnh và đặcbiệt là xương chân và các khớp xương chân tương đối phát triển. Loại Chó này rất đa dạng về màu lông, nhưng điển hình là màu xám trắng, xám lông chồn kết hợp với trắng, đen trắng hoặc có thể trắng toàn thân. Dù Chó alaska có màu lông như thế nào đi chăng nữa thì 2 yếu tố màu lông không thể thay đổi đó là mõm và 4 chân phải là màu trắng. Bộ lông của chúng được phân ra thành 2 lớp. Lớp lông dài bên ngoài đặc biệt không thấm nước; lớp lông trong ngắn hơn nhưng rất dày, có cấu trúc như lông cừu. Chó đẹp nhất là nhờ vào bộ lông của chúng, một bộ lông dày, mượt, khỏe, và có cái đuôi cong dài những sợi lông dài, xõa đều trên lưng. Chúng sở hữu đôi mắt có vị trí xiên chéo trên hộp sọ, hình hạt hạnh nhân, màu hạt dẻ và kích cỡ trung bình. Trong khi di chuyển, chúng luôn đứng thẳng, ngẩng cao đầu, 2 mắt mở to và luôn luôn quan sát do Chó alaska rất tò mò, rất nhanh nhẹn hoạt bát, luôn luôn quan sát tìm hiểu mọi sự vật hiện tượng xung quanh.

Tập tính

Chúng thông minh, hiền hòa, luôn biết nghe lời dù là chó cái hay đực và luôn nổi bật trong công việc. Thích trẻ nhỏ và luôn hòa thuận với nhũng vật nuôi khác. Tuy nhiên thường thì Malamute không có thói quen nhặt bóng hay tha đồ vật như một số giống chó săn khác vì mục đích nuôi từ cổ xưa của người Eskimo không vì mục đích săn bắn mà chỉ để kéo xe nên bản tính săn mồi trong nó rất ít. Đặc biệt là không bao giờ tấn công mèo, điều rất khác với đa số các con chó khác. Alaskan Malamute là giống chó thông minh nên có khả năng học tập rất nhanh và rất biết vâng lời. Bản chất rất tò mò và vô cùng hiếu động nên Malamute rất thích được lao động. Alaskan Malamute có thể tự đi rất xa mà vẫn tìm được đường về. Do tập tục sống bầy đàn nên khi nuôi trong gia đình thì chúng rất nghe lời chủ bởi coi chủ như con đầu đàn, luôn phục tùng và có khuynh hướng luôn sẵn sàng bảo vệ đàn của mình khi có kẻ muốn tấn công hay xâm phạm. Malamute có khả năng học và dễ tuân lệnh. Chúng rất thích thú khi được kéo vật gì đó trên những đoạn đường dài cùng bầy đàn của nó. Việc di chuyển trên tuyết trong không gian rộng lớn thì rất tốt.

Chúng thích chạy nhảy ở những nơi rộng rãi thoáng mát và một điều khá hay đó là giống Chó alaska này không có thói quen tha đồ hay nhặt bóng như những giống Chó săn khác vì vốn dĩ ngay từ thời xa xưa, những người dân vùng Bắc Cực nuôi dưỡng và huấn luyện chúng chỉ để lao động mà điển hình là dùng để kéo xe chứ không dùng chúng vào mục đích săn môi như các loại khác. Bản năng kéo xe và di chuyển trên những quãng đường dài dường như nó đã ngấm vào máu của dòng Chó này. Chó Alaska là một trong những giống Chó thông minh nhất thế giới. Chúng có bề ngoài hình giáng giống như một con Chó sói hung giữ và khó gần tuy nhiên trái với những gì so với vẻ bề ngoài của nó thì chó Alaska rất hiền lành, gần gũi rất tinh nghịch nhưng lại biết nghe lời chủ. Chúng sống với chủ nhân của chúng rất hiền hòa, và rất tình cảm. Chó Alaska này đó là chúng đặc biệt rất quý trẻ em

Có một sự kiện diễn ra liên quan đến loài chó này, đó là vụ việc bé gái 6 ngày tuổi được cho là bị chó Alaskan Malamute ăn mất đầu. Bà mẹ đã khi phát hiện con gái 6 ngày tuổi có tên Eliza-Mae Martha Mullane tử vong bên cạnh con chó giống Alaskan Malamut có tên Nisha của gia đình. Người mẹ ba con hoảng hốt nói với người hàng xóm rằng Cháu không biết làm gì nữa. Con chó ăn mất đầu con bé rồi. Cô ấy liên tục hét lên Con chó đã ăn mất đầu con bé. Người chồng đã mua con chó giống Alaskan Malamut ở bên ngoài 1 quán rượu rồi đem con chó đó về vì ai đó nói rằng họ sẽ bỏ con chó đó đi. Con chó Nisha được khoảng 5, 6 tuổi nhưng trông nó già hơn tuổi, trước đó, nó đã bị bạc đãi.

(Nguồn: vi.wikipedia.org)

Biệt hiệu Mal hay Mally
Nguồn gốc Hoa Kỳ (Alaska)
Đặc điểm
Nặng Đực 38.5 kg – 55 kg (85 lb) – (123 lb)
  Cái 34 kg – 45 kg (75 lb) – (100 lb)
Cao Đực 63.5 cm (25 inches)
  Cái 58.4 cm (23 inches)
Bộ lông Dày, hai lớp
Màu xám, đen, đỏ, trắng
Lứa đẻ 4-10 chó con
Tuổi thọ 13-16 năm

Poodle (Chó săn vịt)

Chó săn vịt (Poodle) là một giống chó săn dùng để săn các loại thủy cầm trong đó chủ yếu là  vịt. Ngày nay giống chó này được lai tạo để trở thành dòng chó cảnh với hình tượng là là những quý cô xinh xắn, yêu kiều. Tên “Poodle” của chúng xuất phát từ chữ “Pudel” trong tiếng Đức, nghĩa là “thợ lặn” hay là “chó lội nước” và bộ lông của chúng có thể đè bẹp cơ thể khi ở trong nước. Phần lông còn lại che phủ các khớp và các bộ phận quan trọng để giữ cho chúng không bị lạnh và bị thương.

Chó săn vịt nổi tiếng với khả năng bơi lội tuyệt vời, sự nhanh nhẹn và sự vâng lời của chúng Chúng có thể bơi rất tốt trong nước lạnh, các thợ săn thường nuôi chúng để săn các loài chim hay bắt cá trên mặt hồ. Chúng còn có những tên gọi khác bao gồm: Caniche, Barbone, Chien Canne, Tea Cup Poodle, French Poodle, Pudle, Teddy Poodle. Từ năm 1960 đến 1982, giống chó này liên tục xếp vị trí đầu tiên trong danh sách những loài được yêu mến nhất. Chó Poodle có trí thông minh và vẻ ngoài ưa nhìn. Với bộ lông vừa dài, vừa xoăn với đủ màu sắc điệu đà, chó săn vịt được coi là loài chó điệu đà nhất thế giới.

Lịch sử

Chó săn vịt là một hậu duệ của các giống chó French Water Dog, Barbet và Hungarian Water Hound. Cái tên “poodle” nhiều khả năng ra của từ tiếng Đức, xuất phát từ chữ “Pudel, có nghĩa là “một trong những người chơi ở dưới nước”. Kiểu lông được cắt như lông cừu được thiết kế bởi những thợ săn để giúp những chú chó poodle bơi hiệu quả hơn. Họ sẽ để lại lông trên các khớp chân để bảo vệ chúng khỏi cái lạnh. Các thợ săn ở Đức và Pháp đã sử dụng như là một con chó dùng trong săn bắn hay như là một loài chó dùng để săn những con chim nước và để đánh hơi ra nấm cục ở trong rừng.

Nguyên gốc tiếng Pháp của cái tên Caniche (Poodle) được bắt nguồn từ “Cane”, một từ vựng để chỉ con chim Cu Rốc cái. Ở những nước khác tên của chúng làm là một sự liên tưởng đến những vệt tròn tỏa ra trên mặt nước. Ban đầu giống chó này được sử dụng cho mục đích săn bắt chim và được kế thừa nhiều đặc điểm của giống chó Barbet (Barbet là chim Cu Rốc). Năm 1743, chúng được gọi là Caniche, một từ để chỉ con chim chim Cu Rốc cái trơng tiếng Pháp. Sau đó, dần dần Caniche (Poodle) và Barbet được tách biệt với nhau.

Poodle đã được biết đến trên khắp Tây Âu trong ít nhất 400 năm trở lại đây, tuy nhiên xuất xứ thật sự của chúng vẫn còn đang gây tranh cãi ở các nước Pháp, Đức, Đan Mạch. Sau đó người Pháp bắt đầu nuôi và dạy cho chúng biểu diễn xiếc, vì chúng rất thông minh. Nói chung, Toy poodle đã được biết đến trên khắp Tây Âu ít nhất là 400 năm và được miêu tả trong bức tranh ở thế kỷ 15 và trong các tác phẩm điêu khắc từ thế kỷ nhất. Các đề tài này đã gây ra nhiều tranh cãi về nơi con chó đã được chính thức phát triển.

Người Pháp bắt đầu sử dụng các chú chó này như một người biểu diễn xiếc vì khả năng dạy dỗ và trí thông minh của chúng khá cao. Các giống chó này đã trở thành rất phổ biến ở Pháp, dẫn đến tên gọi “French poodle”. Toy và Miniature poodle giống được gây giống từ những con lớn, ngày nay được gọi là Standard Poodle. Trong thế kỷ 18 những chú chó Poodle nhỏ hơn trở nên phổ biến với người dân. Ba kích thước chính thức là Toy, Miniature và Standard poodle. Các nhà lai tạo giống đã tạo ra một loại có kích thước trung bình được gọi là Klein poodle (Moyen poodle) và một loại nhỏ hơn là Tea-Cup poodle. Ngày này chó xù ngày càng phổ biến như một giống chó để bầu bạn hơn là chó săn vì đặc tính thân thiện, vui vẻ và trung thành của nó và cũng bởi các size và những màu sắc khác nhau mà mọi người có thể tùy chọn theo sở thích.

Khuôn mặt của một con Poodle hiện đại

Đặc điểm

Đây là giống chó có tỉ lệ kích thước loại trung bình. Lớp lông quăn chính là đặc điểm đặc biệt của chúng. Vẻ bề ngoài của chúng tạo nên ấn tượng về con chó thông minh, nhanh nhẹn và tích cực đồng thời ngoại hình hài hòa cũng tạo nên ấn tượng về sự sang trọng và lòng tự hào của chúng. Đây là một giống chó cỡ vừa chiều dài xấp xỉ bằng chiều cao tính bả vai.

Kích thước lên đến 10 inches (25.4 cm). Các kích thước của AKC về giống poodle được xác định bởi chiều cao, chứ không bởi trọng lượng. Poodle Toy có kích thước 10 inch hoặc nhỏ tính từ điểm cao nhất của vai. Sọ là vừa phải, hơi tròn. Mõm dài, thẳng. Mắt hình bầu dục được đặt khá xa nhau và có màu đen hoặc nâu.

Các chú chó poodle tiêu chuẩn phải là bản sao lớn và phát triển của giống poodle kích thước trung bình với những đặc điểm giống nhau được giữ lại. Poodle cỡ trung (standard) có kích thước từ 35–45 cm. Poodle mini có kích thước từ 28–35 cm. Poodle mini phải hiển thị tướng mạo của 1 poodle cỡ trung thu nhỏ, giữ lại càng nhiềm đặc điểm tỉ lệ càng tốt và không được có dấu hiệu lùn. Toy Poodle: kích thước từ 24–28 cm (lý tưởng nhất: 25 cm), kích thước có thể dao động trong khoảng 1 cm. Toy poodle có cân nặng khoảng 3–4 kg

Tai gần đầu, dài và phẳng, có lớp lông lượn sóng. Hai chân trước và sau cân đối với kích thước cơ thể của chúng. Đuôi hướng lên cao. Đôi khi được cắt ngắn bằng một nửa chiều dài trước đó hoặc ít hơn để làm cho chú chó nhìn cân bằng hơn. Bàn chân hình oval khá nhỏ và các ngón chân cong. Da mềm mại, đàn hồi và có sắc tố. Mông tròn và không xệ. Bắp đùi trên có cơ bắp phát triển và đẹp. Dáng đi và di chuyển củapoodle có dáng đi nhẹ nhàng và nhún nhảy.

Màu lông của mỗi chú chó phải phù hợp với màu da của chúng. Những com chó xù trắng với da màu bạc luôn là đối tượng được ưa thích nhất. Bộ lông khá xoăn, Màu sắc lông bao gồm đen, xanh, bạc, xám, kem, mai, đỏ, trắng, nâu, hay màu cafe sữa. Lông Poodle là một giống chó rất đặc biệt với bộ lông luôn mọc dài ra giống như tóc của người. Các giống chó khác lông chỉ mọc dài đến một độ tối đa rồi dừng lại, Poodle thì không như vậy, lông của chúng cũng không rụng như các giống chó khác.

Dạo phố với chó săn vịt ở Úc

Tập tính

Caniche là giống chó nổi tiếng về long trung thành, nó có khả năng học hỏi, dễ đào tạo, và là chú chó đồng hành dễ chịu. Chúng thích hợp để dạo chơi cùng con người hơn là tham gia vào những trò đuổi bắt hay vận động thể lực. Lớp lông dày xoăn của chúng là đối tượng thi tài nghệ thuật của con người với những kiểu cắt tỉa khiến những poodle trông đỏng đảnh và xinh xắn. Tuy nhiên, poodle vẫn được xếp vào những nòi chó thông minh và dễ huấn luyện mặc dù chúng sủa hơi nhiều và khá cáu kỉnh.

Toy Poodle khá là thông minh, chúng đáp ứng rất tốt các yêu cầu của con người, chúng được cho là một trong những giống chó dễ huấn luyện nhất, chúng vui vẻ và năng động, thích được chơi với mọi người. Tuy nhiên, nếu chúng không được tập thể dục đều đặn thì sẽ có khả năng trở nên nhút nhát, có những biểu hiện tiêu cực như cắn người, phá đồ đạc, gầm gừ, sủa nhiều (Hội chứng chó nhỏ).

Chúng được coi là một trong những giống chó dễ dạy dỗ nhất. Hiền hòa, vui vẻ và hoạt bát, chúng thích được ở cùng và quan tâm với mọi người. Huấn luyện chúng dễ dàng và tuyệt đối không nên quá chiều chuộng chúng. Nếu một người không phải là chủ của chúng, chúng có thể cắn nếu bị họ chọc giận. Toy poodle nói chung rất tốt với vật nuôi khác và những chú chó khác. Poodle cũng có thể chơi cùng với trẻ em, tuy nhiên từ 5 tuổi trở lên là tốt nhất. Trừ những thứ mà người chủ cấm và không được phép để, những thứ còn lại dễ dàng bị chúng gặm nhắm. Chúng thường cảnh giác với những người lạ, có thể chúng sẽ chồm lên, cào cấu, hay gầm gừ, nhưng nếu chúng được dạy dỗ sớm thì chúng sẽ thân thiện hơn. Chúng có thể rất nhạy cảm và dễ giật mình.

Chăm sóc

Là giống chó sống được khá lâu, tuy nhiên vẫn tùy thuộc vào bệnh di truyền. Một số dễ bị IMHA (trung gian miễn dịch Thiếu máu tán huyết), trật khuỷu chân sau, tiểu đường, động kinh, rối loạn tim, PRA, chảy nước mắt, nhiễm trùng tai và các vấn đề về đường tiêu hóa. Các vấn đề về mắt như đục thủy tinh thể và võng mạc teo có thể gây mù. Da dễ bị dị ứng, có thể do không có kỹ năng sử dụng của đồ tỉa lông chó.

Những con có bộ lông màu nâu có xu hướng chuyển thành màu xám. Lông phải được chải thường xuyên. Chúng phải được tắm thường xuyên và cắt bớt lông từ sáu đến tám tuần. Lông phải được cắt bớt. Có một số loại kiểu lông khác nhau của poodle. Phổ biến nhất và chăm sóc dễ dàng là “pet clip”, “puppy clip” hoặc “lamb clip”, những kiểu mà lông trên phần cơ thể cắt ngắn. Poodle ít rụng lông và thích hợp cho người bị dị ứng. Cần thường xuyên cắt tỉa, cạo bớt lông của Poodle nhằm tránh cho lông mọc dài đâm vào tai, mắt, mũi miệng hoặc các bộ phận bài tiết gây ra bệnh cho chó. Việc cắt tỉa lông này cũng nhằm mục đích thẩm mỹ, và giúp chó di chuyển dễ dàng hơn.

Làm sạch và kiểm tra thường xuyên cho đôi tai để tránh bọ ve hoặc nhiễm trùng vào trong ống tai. Cần đánh răng thường xuyên. Đây là giống chó thích hoạt động, nên chúng cần được đi bộ hàng ngày. Các trò chơi sẽ hỗ trợ rất nhiều cho nhu cầu tập thể dục của chúng.Chúng cũng sẽ thích thú hơn khi được chơi đùa một không gian tốt, có rào chắn an toàn.

(Nguồn: vi.wikipedia.org)

Call Now

Chat với Shop